Ngũ giới là năm điều ngăn cấm có tính chất hướng dẫn mọi hoạt động đời sống của người tin theo đạo Phật. Nó là rào cản ngăn không cho ta lọt xuống dòng sông mê muội đau xót. Chữ giới có nghĩa rất rộng là ngăn cấm, đừng làm, nhằm tự bó buộc lấy mình, phòng bị như đắp đê ngăn lụt lội, xây bờ đê cho chắc để giữ nước lại. Đó là những hình ảnh cụ thể để hiểu chữ giới. Khi ta đi qua cầu cao ngệu bắt ngang sông rộng, nước chảy xiết thao thao, nếu chiếc cầu ấy không có lan can, rào cản hai bên, chúng ta sẽ cảm thấy chóng mặt, không cất bước được vì hồi hộp lo âu. Trái lại, nếu có lan can, rào cản hai bên vững chắc, ta qua cầu rất bình yên. Giới luật cũng có giá trị và ý nghĩa như vậy.
Đức Phật Thích Ca đã có lời di chúc trước khi ngài nhập Niết-bàn rằng: “Sau khi ta diệt độ, các ngươi phải tu hành, phải tôn kính giới luật làm thầy”.
Trong Kinh Di Giáo có nói, giới luật là chỗ an ổn số một cho tâm hồn, hành động của người tu tập giải thoát. Nghĩa là giới luật giúp ta phương tiện tối yếu để tu tập chấm dứt tái sanh từ vô số đời sống lầm than khổ luỵ. Từ chỗ thiền định lắng sâu mà trí sáng phát sanh lên. Từ đó nó củng cố, soi rọi thêm cho việc hành trì giới. Cứ thế, trong sự liên chuyển tác động lẫn nhau để hỗ trợ đạt tới cõi giải thoát thảnh thơi, năm giới là nền tảng chung nhất, lớn nhất, là mẫu số chung cho toàn bộ giới luật tại gia hay xuất gia. Năm điều răn ấy là:
1. Tránh xa sát sanh,
2. Tránh xa sự trộm cắp,
3. Tránh xa sự tà dâm,
4. Tránh xa sự nói dối,
5. Tránh xa sự dể duôi, uống rượu và các chất say.
Năm giới luật này, căn cứ trên tâm từ bi, bình đẳng, trên phương diện dứt trừ tội lỗi cá nhân và đem lại trật tự, an vui hạnh phúc cho xã hội.
1. Không được sát sanh:
Không được sát sanh, giết hại mạng sống, sự sống cụ thể là đời sống con người, đời sống của động vật. Chủ yếu quan trọng là đời sống con người. Trần thế khổ nhiều hơn vui, con người mới có ý chí, ý chí quyết định thành Phật. Thế nên, sự sát hại mạng người là tội nặng nhất, trong các sinh vật ở đời này.
Kế tiếp là cố tránh đi sự sát hại mạng sống của các loài động vật như gia cầm, gia súc, dã thú, cho đến những loài vật nhỏ nhất khác. Tất cả chúng đều là sự sống mang tính chất tiến hoá hơn các loài thực vật. Thế nên cắt đứt thân mạng của loài này để tô bồi thân mạng của loài kia là một hành động ác, không hợp với lẽ đạo. Phật Giáo cấm sát sinh để tôn trọng sự công bằng
Đức Phật không đồng ý cho đệ tử của Ngài sát hại, đoạt mạng, bởi vì đem tâm sát hại sinh mạng là lòng độc ác lên đỉnh điểm, khiến tâm từ bi bị bóp chết, là tự giết lòng từ bi của mình. Thế nên Phật giáo cấm sát sanh để nuôi dưỡng lòng từ bi. Khi ta giết đoạt một thân mạng, sự oán giận không dập tắt được, kẻ bị giết ôm lòng oán hận kẻ giết. Cho nên, Phật giáo cấm sát sanh để tránh nhân quả báo ứng.
2. Không được trộm cắp
Con người sống trên đời này có hai sinh mạng là mạng sống tự bản thân với hô hấp đều đặn này và ngoại mạng là của cải vật chất tiền bạc, ruộng vườn, tài sản đủ thứ. Lấy những vật không thuộc quyền sở hữu của mình, không có sự ưng thuận của chủ nhân, hay cưỡng ép người khác ưng thuận bằng quyền hành là phạm giới. Những vật to lớn, quý giá như nhà cửa, tiền bạc, ruộng vườn… cho đến những vật hèn mọn như trái ớt, lá rau… người khác không cho phép mà mình chiếm đoạt đều là phạm trộm cướp. Lấy trộm của người khác là sát hại ngoại mạng của họ, làm cho họ điêu đứng khổ não.
Người ta thường nói: “Tiền tài như huyết mạch”. Chúng ta không muốn ai lấy của mình, thì đối với người khác cũng vậy. Nếu lấy của người khác một cách trái đạo là trái lẽ công bằng, không thể tồn tại được….
Người Phật tử giữ giới không ăn trộm, ăn cướp là tự tạo niềm tin an ổn cho mình và cho xã hội. Chúng ta giữ giới không trộm cướp để tránh khỏi nghiệp báo oán thù. Trong xã hội có tổ chức, tôn trọng lẽ công bằng, tội trộm cướp bao giờ cũng bị trừng trị. Vậy nên để tạo sự công bằng, bình đẳng, nuôi dưỡng tâm từ bi và tránh quả báo thù hằn về sau, Đức Phật khuyên ta không nên trộm cướp.
3. Không được tà dâm:
Tà dâm ý muốn nói về sự dâm dục, phi lễ, phi pháp. Luật dạy người xuất gia phải dứt hẳn sự dâm dục, còn người tại gia thì không được tà dâm.
Khi vợ chồng cưới nhau đủ lễ gọi là chánh, ngoài ra sự lén lút, lang chạ làm việc phi pháp gọi là tà dâm. Khi đã có đôi có bạn rồi, tuyệt đối không phạm đến sự trinh bạch của kẻ khác. Phạm tội này dễ phát sinh biết bao nhiêu tội ác khác, gieo thảm hoạ cho bản thân, gia đình mình và gia đình người. Tuân giữ giới này triệt để tạo nên đời sống an ổn về tinh thần cho mỗi cá nhân, không hoang phí tuổi đời ngắn ngủi vào đam mê nguy hại.
4. Không được nói dối, nói hai lưỡi, nói độc ác, nói thêu dệt
Lời nói là sản phẩm đặc biệt của loài người, lời nói có mục đích là trao đổi, cảm thông. Lời nói cũng là một vũ khí lợi hại không kém bất cứ loại vũ khí vật chất nào. Có khi bỏ mạng, tan nhà mất nước vì một lời nói, có khi an ổn lâu dài cũng vì một lời nói.
Nói dối là nhằm chiếm đoạt quyền lợi vật chất, là nhằm đè nén kẻ khác để tâng bốc mình lên, là nhằm che đậy bản ngã, cũng như mọi ý đồ đen tối khác. Kẻ nói dối thường lo sợ không yên, không được ai tin cẩn. Nói dối quen thói càng đi sâu vào đường ma lối quỷ, trắc trở, bất chánh… Nói dối cũng gieo tai hoạ không lường nổi, tác hại đến nhiều đời nhiều kiếp.
Nói hai lưỡi là lời nói đâm thọc mục đích phá tan sự thật,việc không có tự dựng lên và ngược lại. Trước mặt khen sau lưng chê, vu khống đặt điều, bày mưu gian xảo, đó cũng là một tội trộm cướp bằng ngôn ngữ, gieo thảm hoạ đau khổ cho người.
Lời nói độc ác: Người ta thường sáng tạo kho chất nổ ngôn ngữ để mắng chửi thật phong phú, có cả trăm lối chửi rủa ông bà, cha mẹ, mồ mả dòng họ tổ tiên. Khi quyền lợi bị va chạm, kho thuốc ngôn ngữ nổ hết công suất để hả giận, để trả thù. Xã hội lại sáng tạo ra kẻ đi chửi mướn, chửi suốt ngày không mệt, chửi cho đến khi kẻ thù không chịu nổi mới thôi. Lời ăn tiếng nói lúc này phát triển đến ghê hồn, bằng vạn lời đay nghiến, bẩn thỉu, hèn hạ…cuộc chiến bằng binh khí miệng lưỡi này thật ác liệt, khủng khiếp.
5. Không uống rượu:
Từ xưa tới giờ, rượu là chất kích thích làm mù tối tâm trí, ngấm vào máu, làm trí tuệ u tối, khờ khạo. Hiện nay, sự ăn nhậu đã trở thành một thảm trạng của xã hội. Tử vong vì rượu, bệnh tật nguy hiểm vì rượu nói khôn xiết. Người say sưa tự làm mất nhân cách con người cao quý. Tai hại của rượu đối với bản thân, gia đình thật là cụ thể, đắng cay. Vì khi say rượu tội lỗi nào họ cũng làm được, xấu xa gì họ cũng không sợ, mất hết lương tri.
Đạo Phật chủ trương giác ngộ, muốn được giác ngộ, trước phải điềm đạm tĩnh sáng, Phật tử vì giác ngộ, vì lợi ích cho mình, cho người quyết hẳn không uống rượu. Trừ trường hợp mắc bệnh y sĩ bảo phải dùng rượu hoà với thuốc mới lành thì có thể dùng rượu như vị thuốc. Phật tử được uống rượu thuốc đến khi lành bệnh thì chấm dứt, cần phải trình cho chư Tăng biết trước khi uống.
Năm giới là nguyên tắc sống của một người có lương tri. Dù phân nửa người trong xã hội biết giữ gìn năm giới thì xã hội cũng có thể an lạc hơn. Năm giới này được xem là tiêu chuẩn để thẩm định giá trị đạo đức của mỗi người. Không xã hội nào, không người nào chối bỏ năm giới ấy mà có thể tạo dựng xã hội, nhân cách tốt đẹp được.
Người tu Phật muốn thanh tịnh hoá thân tâm phải sáng suốt thấy rõ sự nguy hại của năm phạm vi bất thiện kia. Kế đến, người tu Phật phải có ý chí lìa bỏ và phát nguyện trước ngôi Tam Bảo tinh tấn đi trên con đường thiện lành dưới ánh sáng soi đường của chư Phật, Pháp, Tăng.
Năm giới là nền tảng tu tập cho mọi thứ bậc tu học Phật. Bài học làm người có tư cách phát sinh từ năm giới, ta phải học mãi, giữ mãi suốt đời. Năm giới trong đạo Phật được thực hiện song song với ba đức Bi, Trí, Dũng để tự mình và mọi người đều có an lạc, lợi ích. Giới luật dẫn dắt tâm mình theo đời sống Thánh hạnh mà năm giới là nền tảng cốt yếu. Kinh Pháp Cú có ghi rằng:
“Thế gian ai phạm đạo người,
Sát sanh, trộm cắp, nói cười điêu ngoa.
Tửu sắc say đắm la cà,
Hành vi như thế đúng là tự gây.
Ngay trong hiện tại đời này,
Thiện căn tự bỏ, tạo vay khổ sầu”.
Người mang danh Phật tử phải đặt giới làm nền tảng và kiên quyết thực hành để nhân cách đạo đức chói sáng. Việc tu tập cần phải quay về thực tập nơi tự thân mới là điều quan trọng và thiết yếu hơn cả.